Những scandal ở Tổng cục 2 đã được giải quyết thế nào?

Trân Văn, phóng viên đài RFA
2010-04-06

Tổng cục 2 của Bộ Quốc phòng Việt Nam là một cơ quan nổi tiếng không phải do năng lực hoặc thành tích trong lĩnh vực tình báo quân sự mà chỉ thuần túy là vì nhiều tai tiếng.

Suốt thập niên vừa qua, tuy đã có khá nhiều cán bộ lão thành, sĩ quan cao cấp cũng như trung cấp đã nghỉ hưu, hoặc đang tại ngũ cùng lên tiếng, yêu cầu giải quyết dứt điểm những vụ tai tiếng ấy, song cả Đảng CSVN lẫn chính quyền và giới lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn bất động.Mãi đến gần đây, giới hữu trách mới thực hiện hành động có thể xem là đầu tiên trước một chuỗi phản ứng đáng chú ý, về những vụ tai tiếng kéo dài liên quan đến Tổng cục 2. Hành động đầu tiên đó là gì? Mời qúy vị nghe Trân Văn tổng hợp và tường thuật…  
 

“Siêu quyền lực” nên sai phạm “siêu nghiêm trọng”

Cơ quan tình báo của Quân đội Nhân dân Việt Nam vốn là một bộ phận trực thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam và thường được gọi là Cục 2. Năm 1995, Cục 2 đột nhiên được nâng lên thành Tổng cục 2 và trở thành ngang hàng với Bộ Tổng Tham mưu.
Năm 1996, với tư cách Chủ tịch Quốc hội, ông Nông Đức Mạnh, ban hành Pháp lệnh Tình báo và theo đó, vai trò của Tổng cục 2 đã vượt khỏi tầm quản lý của Bộ Quốc phòng. Tổng cục 2 được xác định là  “lực lượng trọng yếu, tin cậy, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng CSVN, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ”.

Vậy Tổng cục 2 đã làm được những gì? Thành tích lớn nhất của Tổng cục 2, được nhiều công thần của Đảng, nhà nước và quân đội Việt Nam nhắc đi, nhắc lại, suốt từ cuối thập niên 1990 đến nay là hai vụ Sáu Sứ và T4.

Ông Bùi Tín – cựu Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, người theo dõi rất sát các diễn biến liên quan đến Tổng cục 2, tóm tắt về vụ Sáu Sứ:  Vụ Sáu Sứ còn gọi là vụ Năm Châu, xảy ra từ Đại hội 7, năm 1991. Vụ đó do bàn tay của Tổng cục 2, bố trí cho một số Đảng viên lâu năm ở miền Nam là Năm Châu và Sáu Sứ ra Hà Nội, mục đích để giăng bẫy ông Võ Nguyên Giáp, rồi từ đó, kết luận là ông Võ Nguyên Giáp bè phái, tham quyền, có ý đồ tập trung một số tay chân của mình để lật đổ Bộ Chính trị và chính quyền hồi đó. Thế nhưng tất cả những chuyện này là chuyện dựng đứng. Do đó mà ông Giáp yêu cầu phải làm rõ vụ Năm Châu và Sáu Sứ. Lúc ấy, họ cho rằng ông Giáp có ý định giành quyền Tổng bí thư và được ông Trần Văn Trà tiếp sức. Ông Trần Văn Trà định là giành chức Bộ trưởng Quốc phòng. Thế nhưng tất cả những cái đó đều là sự bịa đặt của Lê Đức Anh, của Nguyễn Chí Vịnh, của Đỗ Mười, để làm hại ông Võ Nguyên Giáp. Đấy là tóm tắt vụ Sáu Sứ với Năm Châu. Cả ông Năm Châu, bà Sáu Sứ đều đã chết rồi.

Còn vụ T4? Ông Bùi Tín kể tiếp: Vụ T4 là vụ Nguyễn Chí Vịnh, cầm đầu Tổng cục 2 bịa đặt rằng họ đã đặt được một gián điệp của Việt Nam vào cơ quan CIA và điệp viên đó có bí danh là T4. T4 thông báo danh sách những người đã cộng tác với CIA, đã tiếp xúc với CIA, đã làm tay sai cho CIA. Danh sách đó dài lắm. Nó lên tới hơn 20 người. Trong đó có Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà rồi những người lúc bấy giờ đang còn tại chức như Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, bà Võ Thị Thắng,.. Mục đích của họ là gì? Mục đích của họ là bôi nhọ những người đó, rồi Tổng cục 2 cùng với Lê Đức Anh và Đỗ Mười được nước láng giềng lớn giúp đỡ làm một cuộc đảo chính, lật đổ hết và dựng lên một chính quyền mới, một Bộ Chính trị mới, một Ban Chấp hành Trung ương hoàn toàn mới và hoàn toàn là tay sai của Bắc Kinh. Đó là mưu đồ của T4 và cũng đã bị ông Giáp tố cáo, yêu cầu phải giải quyết một cách triệt để.
 

Bất khả xâm phạm

Trong nhiều thư ngỏ gửi lãnh đạo Đảng CSVN, tướng Võ Nguyên Giáp gọi Tổng cục 2 là một tổ chức “siêu đảng, siêu chính phủ, phá hoại Đảng một cách có hệ thống” và yêu cầu xử lý nghiêm minh. Ngoài tướng Giáp, còn có hàng loạt công thần của đảng, nhà nước và quân đội Việt Nam như các ông: Phạm Văn Xô – một trong những lãnh đạo đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đại tướng Chu Huy Mân, Đại tướng Nguyễn Quyết, Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, Thượng tướng Phùng Thế Tài, Thượng tướng Lê Ngọc Hiền, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, Trung tướng Đồng Văn Cống, Trung tướng Lê Tự Đồng, Trung tướng Phạm Hồng Sơn, Trung tướng Nguyễn Hoà, Thiếu tướng Nguyễn Tài, ông Nguyễn Văn Thi… nêu quan điểm và yêu cầu tương tự  

Tuy nhiên các sai phạm đã xảy ra tại Tổng cục 2, như tướng Nguyễn Nam Khánh – một trong những người được Bộ Chính trị Đảng CSVN phân công theo dõi công việc bảo vệ chính trị nội bộ, nhận định:  Tổ chức thu thập tài liệu và theo dõi cán bộ cao cấp, tổ chức cơ sở làm tài liệu giả, vu cáo nhiều đồng chí là đã làm tay sai cho địch. Người của Tổng cục 2 đã bán kế hoạch phòng thủ bầu trời cho nước ngoài. Người của Tổng cục 2 làm parabol để thu tiền bất hợp pháp, gian lận thuế giá trị gia tăng. Người của Tổng cục 2 còn đưa tài liệu lên mạng Internet nói xấu cán bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, Tổng cục 2 đã sử dụng một số người phức tạp, cài cắm người vào các cơ quan Đảng, Nhà nước để lấy tin, tung tin, bịa đặt, lừa dối Đảng… Cán bộ tình báo quân sự còn cấp giấy chứng minh quân báo cho tay chân Năm Cam hoạt động và liên hệ chặt chẽ với tay chân Năm Cam… vẫn không được xử lý.

Hai nhân vật chính trong những vụ tai tiếng này là tướng Đặng Vũ Chính – Tổng cục trưởng Tổng cục 2 được cho về hưu, con rể tướng Chính là tướng Nguyễn Chí Vịnh được chọn để thay cha vợ đảm nhiệm chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục 2.

Cuộc đối đầu giữa các cán bộ lão thành cách mạng, các tướng lĩnh cao cấp, với giới lãnh đạo đương nhiệm trong việc xử lý những sai phạm của Tổng cục 2 đã lan sang giới sĩ quan trung cấp đang tại ngũ, kể cả những sĩ quan đang làm việc tại Tổng cục 2.

Cuối năm 2008, ông Vũ Minh Trí, một trung tá làm việc tại Cục Kỹ thuật của Tổng cục 2, lên tiếng tố cáo thêm hàng loạt sai phạm ở cơ quan tình báo quốc phòng.

Đơn tố cáo của trung tá Vũ Minh Trí là lý do khiến sáu tháng sau, tướng Giáp viết hai lá thư, một gửi cho hai cựu Tổng bí thư Đảng CSVN là ông Đỗ Mười và ông Lê Khả Phiêu, một gửi các thành viên của Bộ Chính trị, để cùng cảnh báo: Tình hình đang cực kỳ nguy hiểm đối với Quân đội, đối với Đảng!

Sau ba lá thư vừa kể, giới lãnh đạo đương nhiệm của đảng, của chính quyền và của quân đội bắt đầu hành động. Trong bài tới chúng tôi sẽ tường thuật thêm về những hành động này.

●●●

Những vụ tai tiếng liên quan đến Tổng cục 2, thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam được nhiều cán bộ lão thành cách mạng, tướng lĩnh cao cấp xem là “siêu nghiêm trọng”.

Và họ đã đồng thanh lên tiếng suốt hàng chục năm, yêu cầu giới lãnh đạo đương nhiệm phải giải quyết triệt để, và gần đây, có những dấu hiệu cho thấy giới lãnh đạo đương nhiệm đã bắt đầu hành động.

 Lũng đoạn toàn bộ hệ thống?

 Một số người theo dõi sát tình hình chính trị tại Việt Nam cho biết, từ cuối thập niên 1990 đến giữa thập niên 2000, hàng loạt cán bộ lão thành cách mạng, cũng như tướng lĩnh cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam đã gửi hàng trăm lá thư, yêu cầu giới lãnh đạo đương nhiệm xử lý dứt điểm các sai phạm ở Tổng cục 2, song giới này không hề hồi âm hoặc đáp ứng.

Hầu hết những người từng lên tiếng yêu cầu xem xét, xử lý các sai phạm xảy ra ở Tổng cục 2, trong giai đoạn từ cuối thập niên 1990, đến giữa thập niên 2000 như: ông Phạm Văn Xô, Đại tướng Chu Huy Mân, Thượng tướng Lê Ngọc Hiền, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, Trung tướng Đồng Văn Cống, Trung tướng Nguyễn Hoà,… đều đã qua đời, phần lớn những người còn lại thì già yếu, bệnh tật.

Những sai phạm liên quan đến Tổng cục 2, cũng như các yêu cầu chấn chỉnh tổ chức này, tưởng chừng sẽ chìm sâu như nhiều vụ việc động trời khác thì lá thư ghi ngày 16 tháng 12 năm 2008, của Trung tá Vũ Minh Trí, làm việc tại Cục Kỹ thuật của Tổng cục 2, lại khiến dư luận bùng lên.

Trong thư, Trung tá Trí tố cáo, thay vì thực hiện công tác tình báo quân sự thì Tổng cục 2 tiếp tục tổ chức nghe lén, theo dõi, thu thập thông tin về nhiều cán bộ cao cấp của cả đảng, chính phủ lẫn quân đội, tung tin giả để lũng đoạn nội bộ. Chưa kể, Tổng cục 2 đang dùng các kế hoạch, hoạt động điệp báo để bòn rút công quỹ, nếu thanh tra, kiểm tra, kiểm toán một cách chặt chẽ, chắc chắn sẽ phát hiện ra nhiều vụ tham nhũng lớn, nhiều tên tham nhũng lớn.    

 Điểm đáng chú ý nhất là theo Trung tá Trí, Tổng cục 2 đã thành lập ba đoàn “Tình báo hành động” ở quy mô lữ đoàn, được trang bị vũ khí, thiết bị đặc chủng, kèm thiết giáp. Thay mặt nhiều đồng đội, Trung tá Trí nêu ra một số thắc mắc. Chẳng hạn: Thực chất của các đoàn “Tình báo hành động” là gì? Chúng nhắm vào đối tượng tác chiến nào? 

Trong giai đoạn từ cuối thập niên 1990 đến giữa thập niên 2000, khi lên tiếng yêu cầu xem xét, xử lý dứt điểm các sai phạm xảy ra ở Tổng cục 2, nhiều cán bộ lão thành cách mạng, cũng như tướng lĩnh cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam đã nhắc đến vai trò và trách nhiệm của ông Lê Đức Anh, cựu Đại tướng, cựu Tổng Tham mưu trưởng, cựu Bộ trưởng Quốc phòng, cựu Chủ tịch Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.

Tên của ông Lê Đức Anh không chỉ xuất hiện trong những tài liệu liên quan đến Tổng cục 2. Một số người cho rằng, cần đối chiếu các tài liệu liên quan đến Tổng cục 2 với một số tài liệu khác và điều đó có thể góp phần lý giải câu hỏi, vì sao các sai phạm của Tổng cục 2, tuy kéo dài hơn một thập niên, gây bất bình sâu rộng nơi cán bộ, đảng viên cả trong, lẫn ngoài quân đội nhưng vẫn không thể xử lý đến nơi, đến chốn.

Trong những tài liệu được đề cập, chẳng hạn như “Hồi ức và suy nghĩ” của ông Trần Quang Cơ, cựu Thứ trưởng Ngoại giao, ông Lê Đức Anh chính là người chỉ đạo toàn bộ quá trình “bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc”. Quá trình “bình thường hoá” này bất thường tới mức, trong “Hồi ức và suy nghĩ”, ông Trần Quang Cơ phải than: Xin ý kiến đối phương và hướng giải quyết vấn đề để đàm phán trước khi đàm phán, thật là chuyện có một không hai trong lịch sử đối ngoại!…

Lờ tướng, xử tá       

Lá thư ghi ngày 16 tháng 12 năm 2008 của Trung tá Vũ Minh Trí không chỉ khiến dư luận xôn xao. Lá thư này còn là nguyên nhân khiến tháng 6 năm ngoái, tướng Võ Nguyên Giáp tiếp tục viết cùng lúc hai lá thư, gửi hai cựu Tổng bí thư Đảng CSVN là các ông: Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu và các thành viên đương nhiệm trong Bộ Chính trị, bày tỏ sự bất bình về việc bổ nhiệm ông Nguyễn Chí Vịnh làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Tướng Giáp yêu cầu giải quyết những sai trái một cách kiên quyết, triệt để, đúng nguyên tắc, nhằm bảo vệ quân đội, bảo vệ đảng, bảo vệ độc lập tự chủ của đất nước. Đồng thời nhắc nhở “cần chú ý bảo vệ người tố cáo”.

Giới lãnh đạo đương nhiệm của cả đảng, chính quyền lẫn quân đội Việt Nam tiếp tục giữ sự im lặng và bất động cho đến tám tháng sau.

Theo báo chí Việt Nam, hồi đầu tháng 2 vừa qua, ông Phùng Quang Thanh, đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng đã đến Quân Y viện 108, thăm tướng Võ  Nguyên Giáp. Báo chí Việt Nam tường thuật rằng: Bộ trưởng Phùng Quang Thanh bày tỏ mong muốn Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn luôn mạnh khoẻ, trường thọ, tiếp tục có nhiều đóng góp, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và sự trưởng thành phát triển của QĐND Việt Nam

Sáu ngày sau, hôm 10 tháng 2 năm 2009, Bộ Quốc phòng và Đảng ủy Tổng cục 2 ban hành cùng lúc hai quyết định, tước quân hàm sĩ quan và khai trừ Trung tá Vũ Minh Trí ra khỏi Đảng CSVN, vì: Đã tố cáo sai đối với Đảng ủy Tổng cục 2 và đồng chí Nguyễn Chí Vịnh, gửi đơn tố cáo đến một số nơi không có chức năng xem xét giải quyết và nội dung tố cáo đã đưa lên Internet làm lộ bí mật một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của Tình báo Quốc phòng Việt Nam… Vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của Đảng, kỷ luật của Quân đội.

Sau hàng trăm lá thư của hàng loạt cán bộ lão thành cách mạng, cũng như tướng lĩnh cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam yêu cầu giới lãnh đạo đương nhiệm xử lý dứt điểm các sai phạm ở Tổng cục 2, đây là lần đầu tiên giới lãnh đạo đương nhiệm của đảng, chính quyền và quân đội Việt nam có hành động đáp ứng. Cho dù hành động đó đi ngược lại mong muốn của những người gửi đơn.

Chúng tôi đã phỏng vấn Trung tá Vũ Minh Trí, người từng lên tiếng tố cáo và mới bị xử lý:        

Trân Văn: Thưa ông chúng tôi được biết là Bộ Quốc phòng và Đảng ủy Tổng cục 2 vừa có hai quyết định kỷ luật ông, ông có thể cho biết hai quyết định này có những nội dung gì không ạ?

Trung tá Vũ Minh Trí: Ông vừa nói rằng là các ông đã có văn bản ấy rồi cho nên tôi nghĩ cũng không cần phải nhắc lại.

Trân Văn: Và ý kiến của ông về các quyết định kỷ luật này như thế nào ạ?

Trung tá Vũ Minh Trí: Ông cũng vừa nói là ông đã có ý kiến của tôi, không biết là ý kiến ở chỗ nào, đúng không ạ (?). Thực ra thì nếu mà ý kiến đấy có chữ ký của tôi thì chắc là ý kiến chính thức vì cũng có người đã hỏi tôi và tôi đã trả lời. Thế cho nên nếu mà ông có văn bản thì tôi nghĩ cũng không cần phải trả lời. Ông có thể trích nguyên văn bản mà ông đã có trong tay.

Trân Văn: Thưa ông, trong văn bản ghi ý kiến của ông, ông có cho biết rằng còn rất nhiều tồn tại chưa được giải quyết và ông sẽ tiếp tục đấu tranh để làm rõ những sai phạm đã xảy ra ở Tổng cục 2. Với cách tiếp nhận và giải quyết những khiếu nại, tố cáo của ông và với những gì xảy ra với ông trong thời gian vừa qua, vì sao mà ông quyết định vẫn phải tiếp tục đấu tranh?

Trung tá Vũ Minh Trí: Khi định làm việc gì thì người ta đều đặt ra mục đích cuối cùng. Tôi thì chưa đạt được mục đích cuối cùng của tôi nên rõ ràng là tôi phải tiếp tục công việc.

Trân Văn: Thưa ông, mục đích cuối cùng của ông là gì?

Trung tá Vũ Minh Trí: Như tôi đã phản ánh trong rất nhiều văn bản, mục đích cuối cùng của tôi là giúp cho quân đội, cho Đảng, cho Nhà nước, tránh khỏi hiểm họa tự diễn biến ông ạ!

Còn nếu mà nói đơn giản thì tôi cũng như rất nhiều người nữa muốn đấu tranh chống lại tham nhũng, tiêu cực. Đơn giản thế thôi ông ạ!

Trân Văn: Cám ơn ông.

Trung tá Vũ Minh Trí: Tôi nghĩ thế này ông ạ, tôi chỉ lưu ý ông một điều rằng, tất cả các văn bản của tôi thì các ông nên xác định rõ là có đúng của tôi không thì hẳn trích. Chứ sợ rằng trích một văn bản mà giả mạo hay không chính xác thì ảnh hưởng đến uy tín của chính người trích. Bởi vì thực ra tôi cũng có trả lời một vài vị có tính chất là rất gia đình. Nếu mà nó bị lạc ra ngoài thì cũng hơi khó đấy!

Thế nên tôi nghĩ rằng là ông nên xác minh lại cho nó chính xác. Thế thôi ông ạ!

Trân Văn: Dạ vâng. Cám ơn ông đã lưu ý. 

Trung tá Vũ Minh Trí: Chào ông. Cám ơn ông.

Trên Internet hiện đang có một văn bản ghi bốn ý kiến mà Trung tá Vũ Minh Trí phát biểu sau khi nhận các quyết định kỷ luật. Trong đó, có ý kiến cho rằng, đến nay, các lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước chưa có kết luận về thư Trung tá Trí đã gửi, nên ông  xem mọi kết luận, quyết định đối với ông của Thưởng vụ Đảng ủy quân sự Trung ương và Bộ quốc phòng, Thường vụ Đảng ủy Tổng cục 2, Tổng cục trưởng Tổng cục 2 đều là vô giá trị và bất hợp pháp. Trung tá Vũ Minh Trí hy vọng những quyết định vô giá trị và bất hợp pháp ấy sẽ sớm bị bác bỏ.

Liệu những sai phạm đã và đang xảy ra tại Tổng cục 2 sẽ được Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN xem xét trong kỳ đại hội sắp tới, như mong ước của nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có không ít người đã qua đời? Chưa ai có thể trả lời câu hỏi này song với lối xử lý như vừa qua, câu chuyện về Tổng cục 2 chắc chắn chưa thể kết thúc. 

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/How-scandals-involving-Vietnam-military-intelligence-agency-has-been-solved-part-1-04062010074819.html

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/How-scandals-involving-Vietnam-military-intelligence-agency-has-been-solved-part-2-Tvan-04062010132506.html

Comments
One Response to “Những scandal ở Tổng cục 2 đã được giải quyết thế nào?”
  1. trang nói:
    CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC ————————————————- ĐƠN KIẾN NGHỊ – KHẨN CẤP ———————————————– KÍNH GỬI : văn phòng TW ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng văn phòng tw ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng.đồng kính gửi ông nguyễn tấn Dũng thử tướng chính phủ trưởng ban chỉ đạo phòng trống tham nhũng .đồng kính gửi thanh tra chính phủ nướcviệt nam CHÚNG TÔI : nhân dân thôn cao chung gồm 250 hộ gia đình và 117 hộ gia đình thôn cao trung và cao hạ gồm cac hộ gia đính có duộng đất và đất nhà được cấp ủy đảng và xã viên hợp tác xã nông nghiệp họp bàn tới thống nhất chuyển đổi đất dãn dân .từ năm 1987và 1989 ,nay đã làm nhà theo chủ trương của cấp ủy đảng chính quyễn .và xã viên nhất chí 100%và có duộng đất đang xản xuất cấy lúa ,khu đồng diu .nay họ tự do cắm biển dự án khu đô thị nam đường 32 do công ty cổ phần lũng lô là chủ đầu tư không được họp bàn với dân họ cắm biển tự do giao bán chên mạng 11 triệu 1m2 .-và 80 anh chị em hội đồng ngũ 2 tháng 1 năm 1972 huyện hoài đức thành phố hà nội hiện có những giấy chứng nhận chiến đấu tại mặt trận quảng trị và các giấy chứng nhận vùng bị nhiễm chất độc màu ra cam ,và cógiấy chứng nhận bị nhiễm chất độc ra cam theo đúng nghị định của đảng và nhà nước quy định như nghị định 54 .nhưng nhiều năm không được hưởng chế độ theo đúng quy định của nghị định 54 và của chính phủ và quyết định của bộ TBXH quyết các sở các phòng chính sách chả chế độ nhú chong nghị định quy định .54của chính phủ quyêt định -đã lâu đưới sự chỉ đạo của ông Nông Đức Mạnh tổng bí thư đảng cộng sản việt nam và ông trương tấn sang phó bí thư thường chức ban bí thư TW đảng .cậy thế cậy quyền hai ông cấu kết lập chủ trương theo ý của các ông như ( THU HỒI ĐẤT THU HÚT ĐẦU TƯ NHƯNG TIỀN VIỆT NAM 100% ) và .các cấp ủy đảng được phép làm kinh tế .lên khắp đất nước họ đều có chủ trương thu hồi đất.để làm kinh tế. ? ?? – năm 1958 năm 1960 nhe theo lời đảng ,Bác Hồ nhân dân quê hương thôn cao trung ,xã đức giang chúng tôi và khắp đất nước vào hợp tác xã nông nghiệp ,đóng cổ phần bằng ruộng dất ao hồ ,trâu bò cày bừa,để xây dựng hợp tác xã nông nghiệp xây dựng đất nước theo xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa mác lê nin ,chải qua những năm triến chanh chống mỹ nhân dân chúng tôi đống góp người ,thóc gạo ,của cải gửi ra tiền tuyến .có khẩu hiệu thóc không thiếu một cân ,quân không thiếu một người . và xây dưng những cánh đồng 5 tấn dồi 7 tấn thóc trên một hec ta . dồi thanh niên ba sẵn sàng .phụ nữ ba đảm đang . nay đất nước đã được giải phóng . quê hương tôi vẫn còn nghèo nắm ,mỗi hộ khẩu chỉ có 10 thước ruộng khẩu.và 2 thước,ruộng gọi là 10% chồng rău. toàn dân ngày mùa thì chở về cấy cày .còn ngoài da đi làm thuê buôn thúng bán mẹt, chên khắp đất nước, kiếm ăn sinh sống, nhưng hiện nay cán bộ đảng viên cấp ủy đảng từ thôn xã tới huyện tỉnh tới TW đảng họ đã lợi dụng vào lòng tin yêu của trúng tôi với đảng .để họ lừa nhân dân chúng tôi không đúng ,nghị định và chủ trương nghị quyết của hợp tác xã năm 1958 và năm 1960 của chủ trương đường nối của đảng .là dân chúng tôi nói diêng nhân dân cả nước nói chung .theo chủ trương của đảng ,đứng đầu là ông Nông Đức Mạnh tổng bí thư ban chấp hành TW đảng và ông Trương Tấn Sang phó bí thư thường chực ban chấp hành TW đảng cộng sản việt nam đã đứng đầu ban bí thư TW đảng lập ra chủ trương thu hồi đất thu hút đầu tư bằng bằng ( tiền ) việt nam cấp 100%.và chỉ đạo cán bộ cắt sẽn lại số duộng gọi là khoán hai .nhưng không đúng với điều lệ HTX nông nghiệp những năm1958 và 1960 của hợp tác xã mà cắt xén tới 20% tổng số ruộng của chúng tôi ,lập quỹ đen .bán mua đổi chác .làm giàu bất chính, các cấp ủy đảng như nguyện vọng công bằng của toàn dân. thu hồi đất 47 triệu một sào bằng 360m2 .họ giao bán trên mạng 11 triệu 1m2 bằng 3 tỷ 960 triệu , trừ đi 47 triệu .họ thu được 3 tỷ 913 triệu .đó là chủ trương thu hồi đất vốn đầu tư 100% tiền việt nam .không cần họp bàn với dân .hỏi tưói cơ quan tiếp công dân của TW đảng và nhà nước .họ đều bao biện nhận đơn không làm .dồi đổ cho chủ trương đường nối của TW đảng. khắp các ban ngành , thanh tra từ viện kiểm sát tối cao tới các bộ .từ lâu do chỉ đào của Đảng .Đứng đầu là ông Nông Đức Mạnh và ông Trương Tấn Sang .và ông Nguyễn Văn Chi chủ nhiệm ủy ban kiểm tra TW đảng và ông Bùi Nguyên Xúy trưởng ban chỉ đạo tiếp công dân của TW Đảng và ông Lê Hồng Anh bộ trưởng bộ công an . ông Phùng Quang Thanh bộ trưởng bộ quốc phòng . ông Lê văn Dũng phó bí thư ban chấp hành TW Đảng và các ban ngành , cục chính sách cục người có công bộ quốc phòng . thanh tra bộ quốc phòng . cấu kết với bộ LĐTB vàXH bà Nguyễn Thị kim Ngân cùng các ông thứ trưởng Bùi Hồng Lĩnh và các ông phó cục truởng người có công Lê Quang Bảy cúc chính xách người có công đã từ lâu cấu kết với các giám đốc sở và các phòng ban chính xách của Đảng nhà nước lập hồ sơ khống (giả) thương bệnh binh liệt sý mẹ việt nam anh hùng giả người có công giả chất độc màu ra cam giả khắp tỉnh hà tây .do chủ trương của ông Nguyễn Trọng Chúc bí thư huyện ủy huyện Hoài Đức tỉnh ủy viên thành phố Hà Nội là TÊN chống lại luật nghĩa vụ quân sự. không tham gia kháng chiến chui luồn vào đảng và cấu kết với ông Hà Văn Hiền bí thư tỉnh ủy tỉnh hà tây làm xai đường nối chủ trương của Đảng . cấu kết cùng bộ tư lệnh Thủ Đô . ông Phí Quốc Tuấn thiếu tướng , trương ban quân sự thủ đô Hà Nội . ông Phùng đình Thảo chính uỷ Ông phó chính uỷ đại tá Đỗ Căn ông Phó tư lệnh kiêm tham mưu trương đại tá Phạm Tiến Dũng phó tư lệnh đại tá Trần Viết Khoa : đã cấu kết cùng thanh tra tư lệnh thủ đô và phó trưỏng phòng chính sách trung tá Nguyễn tiến Dũng cấu kết với ban chỉ huy quân sự huyện hoài Đức . ông đại tá Phùng bá Tân ông phó bán chỉ huy thượng tá Lê Anh Tuấn , trung tá chính chị viên Vương Quốc Trung . đã từ lâu cấu kết cùng các sã đội khắp huyện Hoài Đức cùng phòng chính sách sở LĐTBvà XH kí quyết định giả cho các tên đảo ngũ phục viên lại được hưởng thương bệnh binh nạn nhân đi ô sin việt nam , cứ có 15 tới 20 triệu là có chế độ .còn những người đi tham gia thật thì không được như anh em hội đồng ngũ 2-1-1972 huyện hoài đức chúng tôi nói diêng và hội đồng ngũ 2-1 1972 của cả tỉnh hà tây (cũ ) nói chung triến đấu tại mặt trận quảng tri bị nhiễm chất độc màu ra cam không được hưởng chế độ lào ( theo đảng chung thành đi giải phóng miền nam thì được chết dần do bệnh tật của chiến chanh gây lên ) còn bọn đảo ngú lai được hưởng chế độ và làm cán bộ .họ cấu kết để bọ phản lại tổ quốc bán nước như bọn quốc dân đảng ở huyện hoài đức (như ông lê đình Trung nhiều năm là cán bộ lên tới chủ tịch mặt trận tổ quốc huyện hoài đức . nhân dân chúng tôi đầy đủ bằng chứng kiến nghị lên TW đảng nhưng đều được bao tre .kéo bè từ TW đang đứng đầu là ông Nông Đức Mạnh và ông Trương Tấn Sang và ông Nguyễn Văn CHi ông Bù Nguyên Xúy phải trị chách nhiệm chước đảng nhà nước và nhân dân cả nước và nhân dân chúng tôi về chủ trương thu hồi đất vốn việt nam 100% ???? – chính sách thu hồi đất của tỉnh hà tây cũ do ông Nguyễn Xuân Lĩnh tham nhũng 7600m2 đất nông trường an khánh được ông Trần Đức Lương chủ tịch nước và ông Nguyễn Duy Bê em kết nghĩa của ông Lương , bảo kê thoát tù lên tỉnh thực hiện chủ trương thu hồi đất vốn việt nam dồi tự do bắt người sử tù khắp tỉnh hà tây tự cướp ruộng đất và . buôn bán đất khắp tỉnh hà tây cũ ? chúng tôi nhân dân cao trung và nhân hà tây cũ đông nguyên đơn ? -đại diện ông nguyễn công trang 55 tuổi người thôn cao trung xã đức giang huyện hoài đức thành phố hà nội kiến nghị và tố cáo các vị từ TWđảng tới khắp cả nước cấu kết làm sai chủ trương chính xách đi cướp đất làm sai các chế độ của nhà nước lấy tiền của dân làm giàu bất chính EMAIL: congtranghatay@gmail.com ĐT 0433662092 D Đ01684049911 Email:congtranghatay@gmail.com đức giang ngày 25 tháng 4 năm 2010 ——————————————————— CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM ĐÃ CÓ THỜI GIAN CHIẾN ĐẤU TẠI CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG XII NGÀY ĐÊM TỚI THÁNG 1NĂM 1973 CÓ MẶT LÀ GIẢI PHÓNG QUYÂN CỦA CHÍNH PHỦ LÂM THỜI CỘNG HOÀ MIỀN NAM VIỆT NAM TẠI TRIẾN TRƯỜNG QUẢNG TRỊ VÀ THAM DỰ CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM .NAY ĐẤT NƯỚC GIẢI PHÓNG ,BỊ NHIỄM CHẤT ĐÔCH DA CAM .CHỮA BỆNH TỪ NAM RA BẮC CON CÁI QUÁI THAI BỆNH TẬT HỌC HÀNH GIỞ DANG .NGHÈO ĐÓI DO BỆNH TẬTVÌ CHIẾN CHANH ĐỂ LẠI KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG MỘT CHÍNH SÁCH LÀO ? BỌN ĐẢO NGŨ LÀ ĐẢNG VIÊN ! LÀ BÍ THƯ HUYỆN UỶ HUYỆN HOÀI ĐỨC NGUYỄN CHỌNG CHÚC LÊ ĐÌNH TRUNG LÀ THANH NIÊN CHỐNG CỘNG LÀ ĐẢNG VIÊN LÀ CHỦ TỊCH MẶT TRẬN TỔ QUỐC HUYỆN HOÀI ĐỨC.VÀ NHIỀU THƯƠNG BỆNH BING ĐẢO NGŨ CŨNG CÓ CẤTĐỘ .BỆNH BINH CHẤT ĐỘC MÀU DA CAM ? ! TIẾP THEO Bà Mẹ Việt-Nam Anh Hùng Có 5 Con Liệt Sĩ Khiếu Kiện Nhà Nước CSVN Đòi Lại Ruộng Đất Ngày tháng: 26/08/2007 Hình: Bà Mẹ Việt-Nam Anh Hùng Trần Thị Thời của Vùng Đồng Tháp Có Năm Con Liệt Sĩ. CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc —————————————- ĐƠN KHIẾU NẠI (V/v: Giải quyết khiếu nại của UBND huyện Châu Thành tỉnh Đồng Tháp tại các công văn số 204/UBND-NC ngày 22/3/2005 và báo cáo số 18/BC-CBNC ngày 23/3/2006) Kính gửi : – Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Chính phủ nước CSVN – Các cơ quan báo chí trong và ngoài nước + Quốc tế Tôi tên là : Trần Thị Thơi, sinh năm 1923 cùng cháu gái là Trần Thị Sao, trú tại ấp An Ninh, xã An Khánh, Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Tôi là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng – có chồng và 5 con trai là liệt sĩ trong thời kỳ gọi là “kháng chiến chống Mỹ cứu nước do nhà nước CSVN tặng thưởng” xin được trình bày với Quý Ông sự việc như sau : Trong “kháng chiến chống Mỹ cứu nước” vợ chồng tôi được ông Trần Văn Khải là em ruột chồng tôi cho (5 công) 5.000 m2 để sản xuất sinh sống nuôi chồng con chiến đấu. Diện tích 5 công đất này có nguồn gốc trong số 16 công đất được chính quyền cách mạng CSVN cấp năm 1950 cho ông Nguyễn Văn Phát và ông Đoàn Văn Bàn. Ông Bàn không canh tác mới cho lại ông Phát, ông Phát cho con rể là Trần Văn Khải số diện tích 16 công này và ông Khải cho vợ chồng tôi 5 công như đã nói ở trên. Gia đình tôi quản lý sử dụng trồng lúa để lấy gạo nuôi chồng con trưởng thành đi đánh trận và chồng tôi đã hy sinh năm 1964. Sau đó 5 đứa con của tôi cũng lần lượt hy sinh tại chiến trường. Vào khoảng 1968-1969 binh lính Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm xã An Khánh và đã lấy mảnh đất này làm đồn bốt vừa để chống phá tiêu diệt lực lượng của quân CSVN vừa triệt đường làm ăn của gia đình có người tham gia Cộng sản. Sau năm 1975 chính quyền tiếp quản diện tích và đồn bốt này làm trụ sở UBND xã. Năm 2003 trụ sở UBND xã chuyển đi chỗ khác, khoảng đất này bỏ hoang nên tôi làm đơn gửi chính quyền xin nhận lại diện tích này nhưng không được chính quyền xã và huyện giải quyết với lý do : “Trụ sở UBND xã An Khánh (cũ) có diện tích 2.691 m2 thuộc thửa 1989 tờ bản đồ số 4 xã An Khánh. Trước thời kỳ gọi là giải phóng, chế độ cũ sử dụng làm đồn bốt, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 gọi là “giải phóng” chính quyền CSVN xã An Khánh tiếp quản và xây dựng trụ sở UBND xã…” (Công văn số 204/UBND-NC ngày 22/3/2006 của UBND huyện Châu Thành). Công văn cũng đã nêu khu đất này đã được quy hoạch làm khu dịch vụ-thương mại chợ An Khánh bằng quyết định số 66/QQD-NB ngày 13/4/2004 và “Hiện nay UBND xã An Khánh đang kêu gọi các nhà đầu tư xây dựng khu đất trên theo quy hoạch đã được phê duyệt”… (công văn số 204/UBND-NC). Thưa Quý ông Thủ tướng, qua trình bày của tôi ở trên và cách xem xét giải quyết trả lời của UBND huyện Châu Thành. Tôi xin Ông với quyền hạn và trách nhiệm của mình cho làm rõ và trả lời tôi những thắc mắc sau : 1- Diện tích của gia đình tôi đòi xin lại là 4.000 m2 trong đó 5.000 m2 của ông Khải cho vì 1.000 m2 đã bị làm đường chứ không phải là 2.691 m2 như công văn 204 nêu ? Tại sao UBND huyện không nói rõ nguồn gốc đất mà chế độ cũ đã làm đồn bốt là của ai ? Vào thời gian nào ? 2- Cách giải quyết của UBND huyện Châu Thành khi bác quyền lợi của tôi có phải là các cấp chính quyền coi việc chế độ cũ lấy đất của gia đình cách mạng CS để làm đồn bốt và tước đi nguồn sống của họ để chống phá cách mạng CS là đúng là hợp pháp ? 3- Diện tích 4.000 m2 còn lại của gia đình tôi bị bỏ hoang đã trên 3 năm. Trong khi gia đình tôi cần đất để sinh sống. Đây là một sự lãng phí khủng khiếp. Ai có quyền được làm như thế ? Cái quy hoạch đó còn được TREO đến bao giờ ? Thưa quý ông trước đây Nhà nước đã có chủ trương trả lại ruộng đất cho những gia đình tham gia cách mạng CSVN bị chính quyền cũ trưng dụng, đất của gia đình tôi bị cướp đoạt sao không trả lại cho gia đình tôi ???. Nay UBND tính làm khu dịch vụ-thương mại (chưa biết đến khi nào mới có người dám bỏ tiền đầu tư) để mọi người đều được hưởng lợi ? Tại sao lại một mình gia đình tôi chịu thiệt thòi? Chẳng lẽ bao nhiêu người đã không tiếc cuộc sống của mình trong đó có chồng và 5 người con của tôi đã chiến đấu và hy sinh để thống nhất đất nước với mong muốn đem lại sự công bằng ấm no hạnh phúc, vậy mà nay kết cục lại như vậy sao? Tôi đã già rồi muốn nhận lại mảnh đất đang bị bỏ hoang mà trước kia bị chính quyền cũ sử dụng để cho con cháu sản xuất nuôi dưỡng tôi nay đã già yếu như vậy không được sao ? Tôi mà biết cuộc cách mạng CSVN này ăn cháo đá bá, đã đi đến phản bội và quay lưng lại với những người đóng góp xương máu cho đảng và nhà nước CSVN ta thì có lẽ tôi chẳng hy sinh chồng con làm gì ? Tại sao chúng tôi là những người đã có đóng góp biết bao nhiêu công lao xây dựng nên chế độ CSVN này mà nay các vị lại nỡ bội bạc, dứt tình như vậy với chúng tôi ? Ai hy sinh công lao máu xương cho các vị ăn trên ngồi chốc mà có quyền lực đầy mình như hiện nay ? Hoàn cảnh tôi là bà mẹ Việt Nam anh hùng các vị đã trao tặng ban phát cho tôi, vậy mà các vị hóa ra chỉ lợi dụng chúng tôi để tuyên truyền có lợi cho mình thôi. Các vị chỉ lợi dụng xương máu của nhân dân để có quyền cao chức trọng thôi. Chớ trên thực tế thì các vị có tha thiết yêu thương quan tâm gì đến cảnh ngộ nghèo khổ của “bà già Việt Nam anh hùng” này. Thật là các vị chỉ giỏi đạo đức giả và chỉ là vắt chanh bỏ vỏ thôi chứ có gì là thiệt tình đâu ? Tôi viết đơn này tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng mấy tháng trước ra Hà Nội. Nay vào đúng dịp gọi là cách mạng tháng 8 và quốc khánh 2/9/2007 tôi lại gửi nhờ người nhà đưa ra thủ đô để tố cáo sự cướp đoạt trắng trợn này, thế có khổn khổ và khốn nạn cái thân già hơn 85 tuổi của tôi hay không ? Cuối cùng tôi tha thiết Kính mong Ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hãy xem xét và trả lời cho tôi, xin Ông hãy trả lời thẳng thắn xin đừng đùn đẩy lòng vòng. Năm nay tôi đã bước sang tuổi 85 rồi quá mệt mỏi, hao tổn sức khoẻ và tiền bạc vì đi lại để đòi xin được nhận lại mảnh đất của mình bao nhiêu năm trời mà chưa kết quả gì. Tôi là gia đình có công lao với chế độ còn bị như vậy, thử hỏi các người khác là dân đen sẽ còn khốn khổ ra sao nữa đây ? Trong đơn tố cáo này tôi kèm 2 ảnh, 1 là tôi đeo huân huy chương đầy trên ngực do nhà nước CS các ông tặng và đứa cháu gái của tôi tên là Trần Thị Sao để các ông nắm được. Xin kính chúc Ồng sức khoẻ làm được nhiều việc tốt cho đời. Tôi xin cảm ơn. Xã An Khánh, ngày 19 tháng 8 năm 2007 Người làm đơn Trần Thị Thơi BS Đỗ Bích Ngọc Trả Lại Toàn Bộ Huân Huy Chương, Kháng Chiến và Có Thành Tích Do Đảng và Nhà Nước Tặng Thưởng Trước Đây… Ngày tháng: 19/05/2008 Thư Của Bác Sĩ Đỗ Bích Ngọc Hà Nội, ngày 3 tháng 2 năm 2008 Kính gửi : – Các vị lãnh đạo tối cao trong bộ máy đảng CSVN và nhà nước, chính phủ nước CHXHCN Việt Nam – thủ đô Hà Nội Đồng kính gửi : – Các cơ quan thông tin đại chúng trong và ngoài nước (Về việc cá nhân tôi quyết định trả lại toàn bộ huân huy chương, kháng chiến và có thành tích do đảng & nhà nước tặng thưởng trước đây…) Tôi: Đỗ Bích Ngọc – 73 tuổi nguyên là bác sỹ chuyên khoa Nội nhi cấp I, trước làm việc tại phòng khám bệnh số 13 phố Phan Huy Chú – Bệnh viện E – TP Hà Nội, trực thuộc Bộ Y tế. Nay ở tại 151 phố Triệu Việt Vương, quận Hai Bà Trưng, TP – Hà Nội Kính thưa quý cấp trên và các ngài ! Tôi tham gia cách mạng cho đảng CSVN từ 1954 tới nay 12/2006 đã có 52 năm liên tục. Tôi một lòng theo đảng CSVN, theo cách mạng và nhà nước. Tôi đã làm việc trên 40 năm trong ngành Y tế, không ngại khó, ngại khổ… Nghĩ đến tương lai, lứa tuổi giá sức yếu, tương lai về hưu có lương hưu để sống. Không ngờ, tôi nghe đảng CSVN, nghe Nhà nước VN XHCN kêu gọi chống tham nhũng, tôi thực sự dám đấu tranh bảo vệ sự công bằng cũng như thời chiến tranh “chống Pháp, chống Mỹ ” nên tôi không lường trước được việc bọn tham nhũng, gian tham lại tìm cách trù dập, bức hại tôi đã 16 năm nay suốt từ tháng 3/1991 tới nay 12/2006. Nay cuộc sống của tôi hoàn toàn trắng tay, không chế độ, không một đồng xu lương hưu, không có 1 m2 ( mét vuông ) nhà đất để ở.. .v.v… Phải chăng vì tôi là tội phạm lớn? Vì làm việc cho Chính phủ nước CHXHCN VN, cho cách mạng Việt Nam trên 50 năm, trong đó có 40 năm ở ngành Y tế xuyên qua 2 thế kỷ 20 và 21, song tôi lại phạm tội chống bọn tham nhũng trong ngành Y tế Việt Nam chăng ? Nếu đúng tôi mắc 2 tội phạm trên thì tôi đề nghị Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam hãy ra quyết định xử lý tôi và hủy bỏ toàn bộ huân chương kháng chiến mà Chính phủ, Nhà nước, ĐCS Việt Nam đã trao tặng tôi. Đồng thời các quý vị hãy ra quyết định vì 2 tội nêu trên mà đưa ra khỏi chữ mảnh đất chữ S của đất nước Việt Nam ngay đi. Trong bước đường cùng nếu có phải đi ăn mày nơi đất khách quê người cũng đành cam chịu. Với lý do trên 50 năm theo đảng CSVN, theo cách mạng, song đến nay lại can tội chống bọn quan liêu, tham nhũng trên đất nước Việt Nam tại Bệnh viện E và Bộ Y tế trước đây. Với điều này các vị có thấy bất công và vô nhân đạo không ? Liệu các vị có thấy yên ổn trong lương tâm không ? Chính vì vậy, hơn 16 năm nay tôi không có một đồng xu lương hưu để sinh sống, thậm chí lúc bị ốm đau cũng không có cả bảo hiểm Y tế để khám, chữa bệnh !!!…v.v…Cảnh ngộ của tôi một trí thức đã một lòng theo đảng vậy mà bị đối đãi bạc bẽo làm sao ? Chính vì thế trường hợp của tôi đã góp thêm vào đội quân Dân oan Việt Nam ngày càng đông đúc và đầy rẫy trong xã hội ta như hiện nay làm nhức nhối cho những người có lương tri ! Tôi đành cam chịu tủi buồn vì sinh nhầm thời, vào nhầm ngành Y, phải sống dựa vào đồng lương hưu của chồng đã có 59 tuổi đảng CSVN, tôi thấy tủi hận quá, mà không biết kêu ai, thấu hiểu hết nỗi đau này ? Kết thúc chiến tranh đã hơn 33 năm, người người được ưu ái, nâng đỡ, hưởng lạc …v.v… lại có một số người ở ngành Y tế được ưu ái phong chức lớn, hưởng lương cao, bổng lộc nhiều, lại chiếm hữu thêm 1 nhà biệt thự giữa Thủ đô Hà Nội, trị giá nhiều chục tỷ đồng Việt Nam, như nguyên Bộ trưởng Y tế Phạm Song, sống cuộc sống đế vương: nào là ô tô, nhà lầu, đủ loại bổng lộc và đặc quyền đặc lợi khác do thượng cấp và phe cánh đem lại cho ông ta, có nhẽ đến 10 đời ông Phạm Song cựu bộ trưởng ngành Y của đất nước này tha hồ hưởng lạc cũng không hết của do tham nhũng, ăn cướp tinh vi. Còn tôi phải sống trong cảnh bị dập vùi, bị bức hại mọi mặt, bị ngược đãi, bất công của một số lãnh đạo, tổ chức bệnh viện E và Bộ Y tế từ thời ông Bộ trưởng Phạm Song thất đức này. Ngày tiếp ngày, tháng tiếp tháng, năm tiếp năm tôi ôm đơn đi khiếu nại, kêu cứu, giải oan sai ….thì đều bị phe cánh tham nhũng của họ ở trong và ngoài ngành Y tế dùng quyền lực được giao không tiếp, xua đuổi, quát nạt, chửi bới thậm tệ… .v. v…. chúng dùng thủ đoạn nhận đơn thư khiếu nại cho qua quýt rồi hủy đơn, vô trách nhiệm… Ôi ! phải chăng cuộc đời này là cuộc đời thừa của xã hội Nhà nước Việt Nam XHCN có đúng không ??? Vợ chồng tôi nhìn đống những tấm huân chương lấp lánh do đảng và nhà nước đã tặng tôi năm xưa mà tôi lại thấy trào nước mắt, nhớ lại một thời chiến tranh, một thời bao cấp gian khổ… Khi ấy tất cả vì tiền tuyến cái đói, cái rét, gian khổ tôi không sợ. Mà hôm nay, kết thúc chiến tranh đã hơn 30 năm tôi lại thấy giật mình vì sợ: Sợ vì trù dập, sợ cái bất công, sợ bọn quan liêu, tham nhũng, sợ bọn lợi dụng chức quyền để hãm hại người ngay thẳng dám tranh đấu. Sợ bọn Lý Thông cướp công lao xương máu của biết bao người lương thiện thời nay, bọn chúng thật dễ sợ vô cùng ! Thật đúng như câu thơ dân gian mà dân ta truyền khẩu khắp nơi : Đảng là mẹ, Bác là cha Từ khi Bác mất Đảng ta góa chồng Bác ơi, Bác có biết không ? Thạch Sanh thì ít Lý Thông thì nhiều ! Kính đơn Nữ Bác sĩ chuyên khoa nội cấp 1 – Đỗ Bích Ngọc trước công tác tại bệnh viện E – Hà Nội Nhà ở hiện nay số 151 phố Triệu Việt Vương,quận Hai Bà Trưng, Hà Nội * Ghi chú: Mong sớm được hồi âm theo địa chỉ đã ghi ở đơn này Công Nghiệp Hóa Kiểu Xẻo Đất Màu Nông Nghiệp Ngày tháng: 16/05/2008 (Loạt bài cơ chế đẻ ra sâu mọt) Trần Quốc Hiên – Đảng DCND 05-05-2008 http://www.ddcnd.org Lời tựa của tác giả. Báo chí trong nước đang phải chịu một chế độ kiểm duyệt còn hà khắc hơn cả thời phong kiến thuộc địa, đó là hậu quả của chế độ độc tài toàn trị ở Việt Nam . Người Việt hải ngoại hiện đang sống ở những nước tự do, khi đọc báo chí trong nước hẳn sẽ cảm thấy vô cùng khổ tâm, bởi những sự thật hoặc là bị bóp méo do chế độ kiểm duyệt, hoặc là phải nói bóng nói gió – chỉ người tinh ý mới nhận ra quan điểm thực – để qua được chế độ kiểm duyệt, những đoạn viết gò ép như bị kẹp chặt giữa hai gọng kìm thép của Ban tuyên giáo trung ương và Bộ Thông tin và Truyền thông. Tôi hi vọng loạt bài này sẽ góp phần làm sáng tỏ một vấn đề cơ bản, đó là “Cơ chế đẻ ra sâu mọt”, mà nếu không nghiên cứu thì sẽ không thể hiểu được tình hình kinh tế – chính trị ở Việt Nam hiện nay. Những con số mà các chuyên gia đưa ra sau đây sẽ khiến nhiều người phải giật mình: Theo thống kê của Bộ Tài nguyên – Môi trường, trong vòng 5 năm từ 2001 -2005, tổng diện tích đất nông nghiệp đã bị thu hồi chuyển sang đất phi nông nghiệp tới trên 366 nghìn ha, chiếm 3,9% đất nông nghiệp đang sử dụng. Bình quân mỗi năm thu trên 73 nghìn ha. Theo cách tính toán khá chi li của Cục HTX-PTNT (Bộ Nông nghiệp – Phát triển Nông thôn), mỗi ha đất thu hồi ảnh hưởng tới 10 lao động nông nghiệp. Như vậy, việc thu hồi đất nông nghiệp trong 5 năm đã làm đời sống của 2,5 triệu người bị lung lay. Trong đó, vùng Đồng bằng Sông hồng có số hộ bị thu hồi lớn nhất với khoảng 300.000 hộ, kế đến là vùng Đông Nam bộ với khoảng trên 100.000 hộ. Hai địa phương có số hộ bị thu hồi đất lớn nhất là Hà Nội với 138.291 hộ và TP HCM là 52.094 hộ. Bắc Ninh là tỉnh “trải thảm đỏ” tương đối sớm mời các nhà đầu tư. 10 năm sau, tại tỉnh có diện tích nhỏ nhất nước này các Khu Công nghiệp mọc lên như nấm. 3.000 ha đất nông nghiệp bị “xén” mất và theo thông kê thì cứ 5 hộ dân có 1 hộ mất đất canh tác. Có những thôn, xóm 90 – 95% diện tích đất nông nghiệp đã “khai tử”. Đất thu hồi phần lớn thuộc diện “bờ xôi ruộng mật”. Xã Tiền Phong ( Mê Linh – Vĩnh Phúc) có 562 ha đất nông nghiệp nhưng đã “hiến” để làm công nghiệp tới 257 ha. Điều đáng nói, số đất bị lấy đi thuộc diện màu mỡ. Điều rất bất công nữa là, có tới hàng triệu nông dân đang lao đao vì mất tư liệu sản xuất thì các Khu công nghiệp sau khi đã giải phóng mặt bằng lại rơi vào giai đoạn “ngủ đông”. Tại 4 tỉnh: Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên và Vĩnh Phúc, có tới 50% diện tích đất đã giải phóng thuộc diện “quy hoạch treo”. Điều tra ở 12 Khu Công nghiệp, Khu Chế xuất với tổng diện tích diện tích trên 2.000 ha thấy tỉ lệ sử dụng đất và lấp đầy KCN chưa đạt 50%, thậm chí có nhiều nơi chỉ đạt dưới 10%; đã khiến ông Bộ trưởng Mai Ái Trực phải thốt lên: “Với cách quản lý thiếu trách nhiệm và lãng phí như thế này thì không hiểu 10 năm, 20 năm sau, con cháu chúng ta sẽ sống ra sao.” Chưa nói đến 10 năm, 20 năm, mà ngay bây giờ người nông dân mất đất sẽ sống ra sao? Hầu hết khi các doanh nghiệp vào lấy đất đều đưa ra cam kết ngon ngọt là sẽ tạo công ăn việc làm cho người mất đất, nhưng khi xong rồi thì “sống chết mặc bay”, với hàng tá lý do. Cục HTX – PTNT đưa ra con số đáng lo ngại là có tới 67% số lao động mất đất vẫn phải “bám” nghề nông để sống và thêm 20% nữa thì chịu cảnh nghề ngỗng lông bông hoặc không ổn định. Có nghĩa là, chỉ có 13% là tìm được công việc mới. Một điều đáng lo ngại hơn, tới 53% số hộ có thu nhập giảm so với trước khi bị thu hồi đất và số hộ khá khẩm hơn lên chỉ là 13%. Quan chức địa phương, cán bộ cơ sở dường như đang bị “hút hồn” bởi những dự án công nghiệp. Trái ngược với sự lo lắng, buồn bã của nông dân, cán bộ cơ sở tỏ ra rất vui, lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng tiếp cận dân để vận động họ đi họp nghe giới thiệu về dự án, giải phóng mặt bằng, lấy tiền đền bù. Tỉnh nào cũng trải thảm đỏ mời gọi đầu tư, “doanh nghiệp vào chỉ đất ở đâu là chính quyền tỉnh cắm đất ở đấy.” PGS.TS. Nguyễn Trí Hoàn thông báo, Bộ Nông nghiệp – Phát triển Nông thôn đang xây dựng đề án về “Chiến lược đảm bảo an ninh lương thực”, dự kiến sẽ hoàn thành vào 8/2008. Trong đó, yêu cầu đặt ra trước tiên là đảm bảo diện tích lúa ít nhất là 3,8 – 4 triệu ha. Con số này là cố định, “bất khả xâm phạm”. Tuy nhiên, việc giữ đất lúa không dễ khi Việt Nam vẫn đang thiếu một bản quy hoạch tổng thể vùng công nghiệp và nông nghiệp. Chính vì không có cái khung pháp lý cho chính quyền địa phương nên nhiều nơi vẫn “tự tung tự tác, xà xẻo đất lúa để làm dự án công nghiệp, đô thị, du lịch…” Viện trưởng Viện Cây lương thực và cây thực phẩm, TS. Nguyễn Văn Tuất, lo ngại, trái đất ấm lên, mực nước biển dâng cao, việc sử dụng lương thực làm nguyên liệu sinh học, hiện tượng sa mạc hoá… đang là những nguy cơ hiện hữu đe dọa an ninh lương thực. Việt Nam cần làm sao đảm bảo 35 – 36 triệu tấn gạo/năm, xuất khẩu 5 triệu tấn và đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ. Theo ông, diện tích đất lúa có thể giảm hơn 10.000 ha/năm nhưng phải đảm bảo tổng sản lượng bằng cách tăng năng suất, nâng cao giá trị lúa trên một đơn vị diện tích. TS Phạm Sĩ Liêm -Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam nhận định: “Đừng nghĩ rằng, chúng ta đang đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo là tưởng chúng ta nhiều đất. Các nhà khoa học đã tính toán rằng, dân số nước ta phải tăng đến 120 triệu dân thì mới ổn định. Như vậy, chúng ta phải tính đến chuyện để ruộng mà nuôi 40 triệu người tăng thêm nữa. Phải bảo vệ bảo vệ tương lai của con cháu chúng ta, thì đó mới được gọi là phát triển bền vững.” Đó là những con số biết nói. Quả thực, Việt Nam đang “Công nghiệp hóa kiểu xẻo đất màu nông nghiệp, Hiện đại hóa kiểu nhập công nghệ lỗi thời về gia công”, Nước ta đã thành một “bãi rác” để các nước phát triển thải rác, thải công nghệ lỗi thời vào. Các Khu công nghiệp phần lớn là công nghệ đã lỗi thời, không có các biện pháp sử lý môi trường phù hợp tiêu chuẩn, lại nằm dọc quốc lộ, gần khu dân cư, khiến cho môi trường ở các khu dân cư và vùng đất nông nghiệp quanh đó bị ô nhiễm nghiêm trọng. Đất ruộng đã chuyển sang làm công nghiệp thì không thể dùng lại để trồng lúa được nữa, đồng nghĩa với việc nhiều nông dân mất đất sẽ mất luôn nghề kiếm sống. Đó thực sự là thảm họa về Môi trường, Dân sinh và An ninh lương thực Quốc gia. Cho dù Chính phủ đã chỉ đạo các địa phương không được lấy đất “bờ xôi ruộng mật” làm công nghiệp. Nhưng, các địa phương vẫn “xẻo” đất màu một cách vô tội vạ. Cho thấy việc làm này đã được hậu thuẫn từ các quan chức cao cấp ở trung ương, cho nên trên cứ cấm, dưới cứ xẻo. Có vài trường hợp đã bị kỷ luật, nhưng đó chỉ là sự thay đổi người sẽ tiếp tục được “xẻo” đất mà thôi, không có dấu hiệu của việc ngừng lấy đất màu để làm công nghiệp. Số lao động làm nghề nông và diện tích đất nông nghiệp có thể giảm nhưng phải đảm bảo năng suất và sản lượng nông nghiệp nhờ ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hóa nông thôn. Đó là nguyên lý cơ bản mà ai cũng hiểu, tuy nhiên người ta đã cố tình lẩn tránh và không làm theo chỉ vì mối lợi trước mắt. Cuối cùng, do các địa phương chạy đua lấy đất ruộng làm công nghiệp nên diện tích đất nông nghiệp giảm, sản lượng lương thực cũng giảm theo, số lượng lớn nông dân mất đất bị thất nghiệp trở thành gánh nặng đè lên xã hội, bao nhiêu lợi ích từ “đất” đã chui vào túi các quan chức địa phương và các nhà đầu tư. Bức tranh Nông nghiệp Nông thôn Việt Nam đã mang một màu ảm đạm nhất trong lịch sử. Không phải do chủ trương, đường lối sai, vậy thì do đâu? Trong buổi làm việc với Bộ Nông nghiệp – Phát triển Nông thôn mới đây (Ngày 8-3-2008), Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nhắc nhở: “Đất nước ta “tam sơn, tứ hải, nhất phần điền” nên đất dùng cho nông nghiệp phải có quy hoạch khoa học. Tại sao đến bây giờ trung ương mới nhận ra thực tế đó? Một việc rõ ràng sờ sờ ra đấy, vậy mà đến bây giờ người đứng đầu và có trách nhiệm cao nhất của đảng mới nhắc nhở? Phải chăng chính ông này đã “ăn đủ” rồi, nên bây giờ nhắc nhở mọi người phải “ăn vừa” thôi. Các quan chức cấp cao ở trung ương đã hậu thuẫn cho địa phương làm bừa, giờ đã đến lúc cảm thấy tình hình cấp bách và tiềm ẩn nhiều yếu tố động loạn, nên mới nhắc nhở và bật đèn xanh cho các cơ quan báo chí lên tiếng, nhằm xoa dịu quần chúng, dọn đường cho những việc làm tiếp theo. Và chiêu bài mị dân quen thuộc của chính quyền vẫn là “ổn định xã hội”. Thể chế đảng toàn trị tất yếu sẽ dẫn đến bọn tập đoàn lợi ích cơ hội thao túng, lũng đoạn nền kinh tế – chính trị. Bọn chúng đã giải thích chủ nghĩa Mác theo hướng hợp pháp hóa việc làm sai trái của mình, tựa như việc giải thích xã hội Việt Nam ổn định đó là thành tựu lớn của CNXH. Thật là ngu dốt và ấu trĩ về chủ nghĩa Mác, phản bội trắng trợn. Xây dựng CNXH theo Mác là một cuộc cách mạng thực sự, là cuộc đấu tranh không ngừng để xóa bỏ những thứ cũ kĩ lạc hậu, chứ không phải áp đặt sự ổn định lên xã hội trong trì trệ và nghèo đói. Bọn tham quan liệu có hiểu điều đó không? Bọn chúng không bao giờ hiểu được điều đó, chúng không có liêm sỉ, lương tâm của chúng bị bán rẻ, chúng thoải mái hưởng thụ xa hoa trên sự bần cùng khốn khổ của quần chúng, bọn chúng còn xấu xa hơn cả phát xít, chúng không phải là người Cộng sản mà là bọn lừa đảo chính trị. Nông dân Việt Nam lại một lần nữa bị mất đất vào tay bọn tham quan ô lại, như đã từng mất vào tay địa chủ, phong kiến thực dân trong quá khứ. Đó là nỗi nhục của cả một dân tộc Vụ Án Ngày tháng: 21/10/2007 Dân Kêu Than: Dân Oan Biểu Tình Trước Trụ Sở Công An Thành Phố Hà Đông [13/06/2008 – Tác giả: admin1 – Vietnam Review] Nhóm phóng viên dân chủ nhân quyền tại Hà tây. 11-06-2008. Hình: Hàng trăm dân oan thuộc xã Dương Nội kéo về Hà Đông biểu tình trước văn phòng Công An vào ngày 11-06-2008. Bà con xã Dương Nội , thành phố Hà đông kéo lên trụ sở tỉnh uỷ để yêu cầu cơ quan tiếp dân giải thích lý do vì sao đất sản xuất nông nghiệp của bà con bị nhà nước thu lấy cho dự án nào đó mà bà con không biết . Dương nội với hơn 17.000 dân và gần 400 gia đình chính sách sẽ làm gì để sống khi đất đai bị thu chiếm. Nguyện vọng đòi hỏi của bà con là chính đáng. Lẽ ra nhà cầm quyền phải có sự trả lời cho dân được rõ. Ngược lại, họ đưa công an cơ động đến đàn áp, bắt đi 4 người khi bà con đang ngồi ăn bánh mỳ trước cổng tỉnh uỷ. Theo chị Dương Thị On hiện đang cùng bà con xã Dương nội biểu tình ngồi , đòi thả người trước cổng công an thành phố Hà đông cho biết . Bốn người bị bắt là : – Chị Nguyễn Thị Tâm, 37 tuổi. – Chị Nguyễn Thị Khanh, 51 tuổi – Chị Nguyễn Thị Dậu, 34 tuổi – Chị Nguyễn Thị Minh, 50 tuổi Sáng nay, 12/6/2008. Hàng trăm người dân xã Dương nội kéo lên trụ sở công an Tp Hà đông đòi thả người. Ai cũng tỏ thái độ vô cùng bức xúc. (xem ảnh) Theo những người đại diện dân cử vào gặp nhà cầm quyền cho biết : Công an Hà đông đang tìm cách thoái thác yêu cầu của bà con với lý do lãnh đạo đi vắng. Cuộc biểu tình của bà con vẫn đang tiếp tục đòi thả người và giải quyết yêu cầu của dân. Dân Kêu Than: Lại Đàn Áp Dân Oan Biểu Tình Tại Hà Nội. [11/06/2008 – Tác giả: admin1 – Vietnam Review] Nhà dân chủ Vi Đức Hồi bị phạt. Nhóm Tháp Rùa đưa tin từ Hà Nội 11-06-2008 Hình: “Sống không còn đất sản xuất, Chết không còn đất chôn”. Đây là một lời than thống thiết của dân oan thấy trên một trong những biểu ngữ chăng trước Văn Phòng Thủ Tướng tại Hà Nội vào ngày 16-04-2008 với hàng trăm đồng bào ngồi hoặc nằm la liệt trong công viên. Tin Hà Nội – Sáng 11/6/2008, vào lúc 9g30 giờ Hà Nội, có hơn 30 dân oan gửi đơn khiếu kiện đã quá lâu ngày mà không được nhà cầm quyền CSVN giải quyết, đã kéo đến trước cửa nhà ông Trần văn Truyền, tổng thanh tra chính phủ Việt Nam, để biểu tình, vì ông này không giải quyết nỗi oan ức cho nhân dân. Dân oan đã trưng biểu ngữ và các khẩu hiệu đả đảo chính phủ và đả đảo Trần Văn Truyền. Ngay sau khi bị đả đảo khoảng 20 phút, Trần Văn Truyền gọi điện và ra lệnh cho công an phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Hà Nội đến đàn áp đánh đập đám đó biểu tình. Công an đã đánh bị thương một số người và bắt đi hơn 30 người, trong đó có cô Lê Thị Kim Thu, một phụ nữ can đảm tranh đấu cho dân oan suốt mấy năm nay. Cho đến 4 giờ chiều cùng ngày – lúc bản tin này được gửi ra hải ngoại – những người bị bắt vẫn chưa được thả. Chiều hôm ấy, cũng có khoảng 60 dân oan khiếu kiện từ Hà Đông – Hà Tây kéo về Vườn Hoa Mai Xuân Thưởng – Hà Nội, yêu cầu nhà cầm quyền không được tước đoạt đất đai của nhân dân các vùng Ba La, Bông Đỏ thuộc Hà Đông và Hà Tây. Họ mới kéo tới, nên chưa biết nhà cầm quyền sẽ đàn áp họ cách nào. Tin Lạng Sơn – Cũng ngày 11/6/2008, vào 2g00 chiều, công an tỉnh Lạng Sơn đã đem xe hơi đến bắt nhà tranh đấu Vi Đức Hồi, vì lý do ông này đã không chịu nộp tiền phạt hành chính theo giờ đã ghi trong lệnh phạt. Lý do phải nộp phạt là do ông Hồi đã viết một số bài cổ vũ cho dân chủ. Nếu ông Vi Đức Hồi không nộp phạt thì rất có thể ông sẽ bị bắt giam. Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi những diễn biến này và thông tin kịp thời đến Quí Vị. *** Qua những sự việc trên, ta thấy nước Việt Nam ta hiện nay “tự do gấp triệu lần” những nước khác trên thế giới. Thật thế, này nhé: – Các quan trên của ta được tự do cướp đoạt đất đai của người dân mà rất hiếm khi bị truy cứu trách nhiệm. Nếu có trong nào bị truy cứu trách nhiệm thì cũng chỉ là trường hợp bất khả kháng nhằm xoa dịu dư luận và sự bất mãn trong nước và quốc tế mà thôi. Có nước nào trên thế giới được tự do như vậy không? – Khi người dân kêu oan thì các quan được tự do kêu công an – là bọn tay sai ngu trung – đến đàn áp người dân. Phải nói là bác Hồ vĩ đại ở chỗ giúp cho các quan ta có được một đám tay sai hết sức ngu trung: hễ cứ ra lệnh là làm, không cần biết phải trái, đúng sai là gì. Để đào tạo nên một tay sai ngu trung như vậy, bác và đảng có một phương sách tuyệt vời là phải hủy diệt cho bằng được cái mà nhân loại gọi là “lương tâm” vốn nằm sâu kín trong lòng họ. Hủy diệt được cái gọi là “lương tâm” này, phải công nhân nhận bác và đảng thật sáng suốt tuyệt vời! Lương tâm có bị hủy diệt thì mới được tuyển chọn là tay sai ngu trung của bác và đảng! Có nước nào trên thế giới sung sướng như vậy không? – Nếu người dân còn ngoan cố kêu oan thì quan trên được tự do ra lệnh bắt giam… Người dân đúng ra không bao giờ bị oan cả, vì theo chính sách sáng suốt của bác và đảng thì đất đai là của nhân dân do nhà nước quản lý. Do đó, nhà nước lấy lại và cấp phát cho ai là quyền của nhà nước. Người dân kêu oan là phạm pháp, là xâm phạm quyền lợi của nhà nước, và đương nhiên sẽ bị luật pháp của nhà nước nghiêm trị. Họ sẽ bị tù vì dám ngoan cố kêu oan. Luật pháp của nhà nước ta lúc nào cũng công minh, luôn luôn bênh vực quyền lợi của “nhân dân”. Có luật pháp của nước nào trên thế giới “ngon lành” như của nước ta không? Một chế độ cho “nhân dân” được hưởng tự do đến như thế thì các quan CSVN, đặc biệt là Bộ Chính Trị phải có nhiệm vụ cao cả là bảo vệ chế độ đến cùng. Nếu cần phải hiến một số hay tất cả đất đai hay vùng biển của tổ tiên cho Trung Quốc, hay dẫu phải hy sinh hết cả nước để bảo vệ chế độ thì chắc chắn Bộ Chính Trị của ta cũng sẵn sàng chấp nhận thôi! Chỉ có một điều rất khác lạ giữa nước ta với những nước khác trên thế giới, là “nhân dân” trong chế độ của ta chỉ chiếm chừng dưới 5% dân số, số còn lại không đáng được gọi là “nhân dân”, họ được coi như bầy nô lệ có nhiệm vụ phục dịch cho 5% được gọi là “nhân dân” này hưởng tự do, ấm no, hạnh phúc. Đám nô lệ này không có quyền gì ngoài quyền tuân phục và làm công cụ cho 5% kia. Đúng như lời Hồ Chủ Tịch đã dạy: “Sau khi thắng giặc Mỹ, chúng ta sẽ xây dựng đất nước tốt đẹp bằng năm bằng mười hơn trước”. Lời bác nói nay đã ứng nghiệm quá 100%! Tuy nhiên, bác quá khiêm nhường nên chỉ nói gấp 5 gấp 10 lần thôi! Thực tế thì “nhân dân” ta đã được giàu lên gấp trăm, gấp ngàn lần so với trước khi chiến thắng “giặc Mỹ”. Vì hiện nay, nhờ chế độ cho tự do cướp bóc và đàn áp bọn “nô lệ” mà “nhân dân” ta nhiều người đã có hàng triệu mỹ kim gửi trong các nhà băng quốc tế… “Nhân dân” ta như vậy tính theo trung bình thì giàu hơn nhân dân các nước trên thế giới rất nhiều. Công lao của bác và đảng vì thế phải được “nhân dân” ghi ơn đến muôn đời! hà cầm quyền cho biết : Công an Hà đông đang tìm cách thoái thác yêu cầu của bà con với lý do lãnh đạo đi vắng. Cuộc biểu tình của bà con vẫn đang tiếp tục đòi thả người và giải quyết yêu cầu của dân. Dân Kêu Than: Khi Báo Chí Quốc Doanh Đồng Loạt Cùng Nhau ‘Hội Đồng’ Dân Oan [26/08/2007-Tác giả: admin1 – Vietnam Review] Lê Minh Úc 26-08-2007 Hình: Cô Lê Thi Kim Thu và đám dân oan biểu tình vào ngày 24-08-2007. Ngày 25/8/2007, 3 cơ quan ngôn luận lớn nhất của CSVN là đài VTV3, Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN) và báo Nhân Dân đã đồng loạt cùng nhau “hội đồng” dân oan và vu cáo Thượng Tọa Thích Không Tánh đã “cấu kết với bọn phản động, các thế lực thù địch và bọn phản động lưu vong ở nước ngoài, lợi dụng tôn giáo và một số phần tử cơ hội chính trị trong nước đã âm mưu dụ dỗ, mua chuộc những người khiếu kiện, kích động họ tham gia biểu tình”. Cũng với những luận điệu cũ rích như các lần trước, TTXVN cho rằng việc dân oan tụ tập biểu tình tại Hà Nội lần này là do bàn tay của “những đối tượng cầm đầu nhận sự chỉ đạo của bọn phản động để tổ chức biểu tình, gây rối và truyền thông tin ra bên ngoài ” để chống phá nhà nước CSVN. Báo Nhân Dân còn vu khống cho ông Nguyễn Khắc Toàn là “một kẻ đầu cơ chính trị”, đã tiếp tay với thầy Không Tánh để “phục vụ ý đồ của mình”. Đây là những luận cứ rời rạc, thô thiển, chụp mũ vô căn cứ, không tài nào thuyết phục được người đọc. “Một kẻ đầu cơ chính trị” phải là một người có quyền cao chức trọng trong chính phủ, có thế lực trong đảng cầm quyền hoặc đảng phái chính trị đối lập nào đó, hoặc là một kẻ giàu có, có thể mua quan bán chức thì mới có thể khuynh loát, “đầu cơ chính trị” được, chứ một thường dân, một kẻ tay trắng như ông Nguyễn Khắc Toàn, lại luôn luôn bị công an mật vụ CSVN theo dõi, bám sát, đeo như đỉa đói thì làm sao “đầu cơ chính trị” được?. Ở một nước độc tài, độc đảng như Việt Nam thì những “kẻ đầu cơ chính trị” không ai khác hơn chính là các quan chức trong bộ máy cầm quyền của ÐCSVN. Các quan tham này đã ban phát chia chác cho nhau bổng lộc, quyền lợi. Kẻ nào biết “thủ tục đầu tiên”, biết nịnh hót, biết cách “đầu tư” vào chiếc ghế của mình thì sẽ mau chóng thăng quan tiến chức. Kẻ nào không biết “đầu cơ chính trị” thì không thể ngồi vững trong bộ máy của nhà nước CSVN được. Về vấn đề dân oan đi khiếu kiện, báo Nhân Dân cho rằng “Nhiều địa phương nhờ làm tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân ngay tại cơ sở, đã giải tỏa được không ít vụ việc mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa bà con làng xã, thắc mắc giữa người dân với chính quyền…”, nhưng lại không nêu ra được lý do tại sao lại có quá nhiều dân oan lê lết khắp nơi để đi khiếu kiện, kêu oan, mà điển hình là sự tập trung cao điểm của gần 2000 dân oan đến từ 19 tỉnh thành miền Nam, tại Sài gòn vào tháng 7 vừa qua. Cuộc tập trung khiến kiện kéo dài 27 ngày hồi tháng 7 đã phải chấm dứt trước sự đàn áp dã man của một lực lượng công an cơ động hùng hậu phối hợp cùng đám xã hội đen. Những tiếng kêu, tiếng cầu cứu, tiếng la hét thất thanh của những người dân oan này đã được chuyển tải ra nước ngoài, qua điện thoại cầm tay. Thế nhưng, báo Nhân Dân đã trơ trẽn cho đó là “Sự bịa đặt buồn cười đến nỗi báo chí nước ta gọi đó là “trí tưởng tượng của phim hành động Holywood” và “một vài đài phát thanh vốn hay nói xấu Việt Nam, đã giông lên, bịa đặt nào là “dân bị quẳng lên xe cam-nhông như lợn”, công an sử dụng cả xã hội đen để hốt dân, rồi không ai biết họ bị đưa đi đâu, v.v và v.v.”. Nhắc đến điều này, chắc chắn là báo Nhân Dân đã bắt chước tờ SGGP (báo điện tử ngày 19/07/2007) ví von chuyện công an dùng roi điện vòi rồng, lựu đạn cay để đàn áp giải tán dân oan đêm 18/7/07 được mô tả trên các trang báo điện tử nước ngoài “là sản phẩm của một sự tưởng tượng rất Hollywood” Chị Lê Thị Kim Thu ở Đồng Nai, một dân oan khiếu kiện lâu năm, và là một hạt nhân của phong trào dân oan cũng đã được báo Nhân Dân không quên chụp cho cái mũ “hung hăng khiếu kiện, còn kích động, lôi kéo người khác gây rối.”. Riêng phần TT. Thích Không Tánh thì được công an “chiếu cố đặc biệt” ngay trước khi ngài chuẩn bị phát tiền cho dân oan. Theo lời kể lại của TT. Thích Không Tánh trên đài Á Châu Tự Do (RFA) thì vào sáng 23/8, trong khi Thượng tọa thừa lệnh của HT.Thích Quảng Độ để chuẩn bị phát chẩn, cứu tế cho dân oan đang tụ tập tại Cầu Giấy, Hà Nội, thì xuất hiện “khoảng 5,6 anh công an ở ngoài lao vào, xô đồng bào sang một bên và giật lấy bì thơ vừa mới đưa cho đồng bào và tất cả các bì thơ trên tay tôi. Một anh nắm tay bên phải và một anh bên trái, đẩy tôi vào cửa của trụ sở số 110 Cầu giấy. Bà con thấy như vậy cũng đẩy cổng vào và thấy tôi bị giữ bên trong. Họ la lớn bảo thả tôi ra.” Lạ thật, đi làm việc từ thiện để cứu những người dân oan khốn khổ mà lại bị công an mật vụ rình rập, chỉ chực để bắt giữ, nhất định không cho phép làm công việc cứu nhân độ thế này. Những đồng bào dân oan này là nạn nhân của cả một hệ thống tham ô nhũng lạm của CSVN, thì nhà nước độc tài đảng trị này không những chỉ cố tình bỏ mặc, không chăm lo, không thèm giải quyết những nỗi oan ức của họ, mà lại còn cấm đoán người khác không được giúp đỡ họ. Trước mặt TT. Thích Không Tánh, thứ trưởng Bộ công an là tên thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng đã ngạo mạn vu khống dân oan: “số đồng bào dân oan là hoàn toàn những kẻ giả mạo, là những kẻ xấu, họ giầu bạc triệu bạc tỷ. Họ bị những kẻ xấu giật giây xúi giục, cho nên cứ đến khiếu kiện cho nên ông không được cứu trợ. Nếu ông cứu trợ tức là ông đã tiếp tay nhằm xúi giục những kẻ xấu. Cho nên chúng tôi phải ngăn chặn việc này.” Thiết nghĩ, nếu lời tuyên bố vung vít này xảy ra ở một nước tự do dân chủ văn minh nào đó trên thế giới thì tập thể dân oan đã có thể đưa tên thứ trưởng này ra tòa về tội vu khống mạ lỵ!. Khoan hãy nói đến cái việc ngăn cấm tôn giáo làm việc từ thiện, chỉ riêng cái tội vu khống lăng mạ cả một tập thể dân oan thì cũng quá đủ để tên thứ trưởng này phải ra hầu toà để trả lời và bị xử phạt tuỳ theo phán quyết của toà án. Tiếp tay với Nguyễn Văn Hưởng thóa mạ HT.Thích Quảng Độ, TTXVN đã miệt thị và chối bỏ sự hiện hữu hàng chục năm nay của Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Chối bỏ cũng chí phải, vì “ngôi chùa gọi là Việt Nam Quốc Tự của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, gồm mười một hecta đất, họ đã lấy từ sau năm 75 rồi. Họ lấy hết, bây giờ chỉ còn ngôi tháp trên mảnh đất vài nghìn thước mà thôi. Họ xây lên đấy một rạp hát rất lớn, rồi hồ bơi, v.v… làm nơi du hí, người ta phóng uế khắp nơi trên ấy” (trích lời phát biểu của HT. Thích Quảng Độ ngày 17/7, tại tiền đình Văn phòng Quốc hội II ở số 194 đường Hoàng Văn Thụ, Phường 10, Quận Phú Nhuận, Saigon, khi dẫn đầu Phái đoàn Viện Hóa Đạo đến thăm, ủy lạo và tiếp tế cho tập thể Dân oan khiếu kiện đến ở đây). Biết không thể đụng chạm đến một tôn giáo lớn, một cán bộ cao cấp đã lệnh cho đàn em trả lại các phong bì cho thầy Không Tánh, nhưng không quên răn đe: “Thầy ra đây cứu trợ, nhưng việc làm này chúng tôi không hoan nghênh”. Thì ra nhà nước CSVN độc quyền luôn cả việc cứu trợ từ thiện. Nhắc đến số tiền 300 triệu đồng tiền Hồ do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trích ra từ quỹ đóng góp của đồng bào Việt Nam, đặc biệt là từ hải ngoại, báo Nhân Dân đã ra vẻ lắm chuyện khi thắc mắc “lấy đâu ra mà lắm tiền thế!”, nhưng lại quên rằng đó là sự đóng góp của đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước. Nên nhớ, mỗi năm những người mà nhà nước CSVN gọi là “bọn phản động lưu vong” có thể gởi về nước cho thân nhân khoảng 4 đến 5 tỷ đô la Mỹ, thì con số 300 triệu đồng tiền Hồ (tương đương với 18, 750 Mỹ kim) quả là một so sánh nhỏ nhoi. Bà Ngô Thị Tuyết Nhung (Yên Bái, Tỉnh Yên Bái): “Tôi Căm Thù Chính Quyền!” (nguồn: VietnamExodus) Để biện minh chuyện dân oan khiếu kiện là bình thường “trong thời kỳ đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, báo Nhân Dân cho rằng khi “lợi ích phía bên này động chạm đến lợi ích của phía khác, mà nếu không hòa giải, thương lượng được, người ta sẽ khiếu kiện vượt cấp lên trên”, nhưng lại cố tình quên đi cái nguyên nhân thật sự là do đám quan chức, cán bộ, đảng viên các cấp đã tìm cách cướp đoạt đất đai của dân oan bằng nhiều hình thức khác nhau, rồi bồi thường rẻ mạt, qua các chiêu bài như“phải mở mang đường sá, hình thành các khu công nghiệp, các công trình thiết yếu cho phát triển đất nước.” Ở một quốc gia có luật lệ rõ ràng, và nhất là có tinh thần thượng tôn luật pháp, đặt luật pháp lên trên tất cả mọi ảnh hưởng của cá nhân, tổ chức, đảng phái kể cả chính quyền … thì chuyện khiếu kiện chỉ xảy ra ở một con số rất ít, và được xử công bằng tại một tòa án liên hệ. Nếu nhà nước CSVN thật sự có quyết tâm muốn giải quyết vấn đề dân oan một cách rốt ráo, không đùn đẩy, không bao che thì sẽ không bao giờ có chuyện dân oan phải đi khiếu kiện khắp nơi, từ Nam ra Bắc, từ năm này qua tháng kia. Nhưng các quan tòa ở Việt Nam lại không bênh vực những người dân nghèo mất đất đai tài sản, cho nên có thể nói là các quan tham CSVN đã cùng nhau tự lưu manh hóa “trong thời kỳ đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. ông Lê Văn Tiển (Xuân Ninh – Quảng Bình): “Việt Nam Không Có Tự Do Dân Chủ” (nguồn: VietnamExodus) Thật là trơ trẽn khi báo Nhân Dân lập lại cái điệp khúc bịp bợm: “Nhà nước của dân, do dân, và vì dân” và cả câu nói của Hồ Chí Minh, “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Nếu được thế thì tại sao bà Ngô Thị Tuyết Nhung lại tuyên bố: “Tôi Căm Thù Chính Quyền!”, tại sao ông Lê Văn Tiển bảo rằng “Việt Nam Không Có Tự Do Dân Chủ”? Mồm thì khua nhặng lên là “Của dân, do dân, và vì dân” mà CSVN không dám đứng ra giải quyết khiếu kiện, lại vô trách nhiệm, cứ bao che đùn đẩy cho nhau. Cái chữ “dân” trong điệp khúc bịp bợm này nên được thay thế bằng chữ “đảng” thì thích hợp hơn: “Nhà nước của đảng, do đảng, và vì đảng” và “Nước ta là nước đảng chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì đảng. Bao nhiêu quyền hạn đều của đảng”, viết như thế cho xong chuyện . Bởi thế cho nên mới có chuyện thứ trưởng công an thay mặt nhà nước ra lệnh cho thầy Không Tánh: “Tôi cấm ông cứu trợ, vì cứu trợ là giúp cho kẻ xấu. Tôi đề nghị ông giao nộp tiền cứu trợ này cho Mặt trận Tổ quốc”. Qua chuyện dân oan đi khiếu kiện, báo Nhân Dân đã hò la phèng la phải “cảnh giác trước âm mưu của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân để kích động chống phá Nhà nước, gây rối trật tự công cộng”. Thật là giỏi đùn đẩy, vấn đề dân oan kéo nhau đi khiếu kiện là chuyện xuất phát từ bên trong Việt Nam, do chính quyền CSVN gây ra, là hậu quả của việc các chính quyền địa phương trưng dụng đất đai của nông dân một cách bừa bãi, vô tổ chức để phát triển các khu công nghiệp, nhưng lại bồi thường rẻ mạt bất công, thì làm gì có chuyện liên quan đến “bọn phản động ở nước ngoài”. Trên tờ VietnamNet điện tử số ra ngày 22/8, qua bài báo “Tiền Giang: Vì sao dân khiếu kiện đông người vượt cấp”, một viên chức cao cấp của tỉnh Tiền Giang là phó bí thư tỉnh uỷ Đỗ Tấn Minh đã phải thừa nhận rằng: “Các ngành các cấp chưa thật sự nỗ lực trong công tác giải quyết khiếu nại, tiến độ làm việc còn chậm, ảnh hưởng đến công việc chung”, thì TTXVN lại cho rằng “Những người khiếu kiện, sau khi được giải thích, hiểu rõ âm mưu lôi kéo của bọn phản động, đã trở về các địa phương”. Trong khi đó chỉ một tháng sau cái đêm kinh hoàng 18/7/2007, lúc mà CSVN huy động công an và xã hội đen đàn áp tàn bạo để giải tán dân oan trước văn phòng Quốc hội 2 ở đường Hoàng Văn Thụ, quận Phú Nhuận, hàng mấy trăm đồng bào đã bị đưa về các địa phương, thì nay những đồng bào này lại đổ về Sài Gòn tiếp tục diễn hành kêu oan, vì chính quyền địa phương các cấp lại hứa cuội, lại cho dân oan ăn bánh vẽ. Kết thúc bài báo tố khổ Thượng tọa Thích Không Tánh và Hoà thượng Thích Quảng Ðộ, báo Nhân Dân kết luận “Loại người như Lê Chiêu Thống và Trần Ích Tắc thời nào dù có che đậy đến đâu cũng sẽ bị nhân dân Việt Nam vạch mặt và phỉ nhổ”, người viết muốn nhắc lại cho báo Nhân Dân, TTXVN và các cơ quan truyền thông quốc doanh, và nhà cầm quyền CSVN nhớ về việc mới xảy ra cách đây hơn một tháng, chuyện ngư phủ Việt Nam bị tàu chiến Trung Quốc tấn công xảy ra hơn 2 tuần lễ, mà hải quân QÐND Việt Nam có mặt trong vùng biển đó, lúc ấy không hề can thiệp để bảo vệ cho các ngư dân ta. Báo chí quốc doanh cũng không loan tin, tất cả hoàn toàn im lặng!

Bình luận về bài viết này

  • Nếu chúng ta không làm thì ai sẽ làm thay cho chúng ta?

  • Nếu chúng ta không làm bây giờ thì đến khi nào?

  • Liên lạc Ban Đại Diện THTNDC qua email thtndc@gmail.com